Gần đây, cô Trần Kiều Ngọc, cư ngụ bên Úc Châu đã tuyên bố công khai “chúng tôi không CHỐNG CỘNG mà chỉ chống tội ác”. Ngoài ra đã từ lâu, có những cá nhân hay đoàn thể hô hào hoà giải, hoà hợp dân tộc, tìm một giải pháp “hoà đàm” với chính quyền Cộng Sản Việt Nam để đi đến một sự hợp nhất giữa người Việt hải ngoại và người trong nước, hay đúng hơn với chính quyền Cộng Sản Việt Nam. Có người bên Gia Nã Đại lại lên tiếng đòi đổi ngày mà người Quốc Gia gọi Quốc Hận 30 tháng tư thành ngày “Việt Nam”. Cũng có người hay phong trào hô hào bỏ quốc kỳ vàng ba sọc đỏ, v…v… Mục đích bài này không phải để lên án hay nguyền rủa những người kể trên. Gần đây, Bác Sĩ Trần Văn Tích bên Đức Quốc viết bài lên án cô Trần Kiều Ngọc. BS Trần Văn Tích đã bị phản đối rất nặng và có người lấy tên là Tương Giang phản đối gọi Bác Sĩ Tích là “Cụ Trần Văn Tích”, với ẩn ý coi BS Trần Văn Tích như là thế hệ già, không còn “hợp thời” để chỉ dẫn lớp trẻ nữa.
Người không Cộng Sản hay chống Cộng Sản, sống trong tự do ngôn luận của các nước Âu Mỹ, gần như luôn luôn rơi vào tình trạng phân hoá tư tưởng, không đồng ý phương cách chung để chống Cộng Sản. Lịch sử cũng đã chứng minh biết bao trường hợp hoàn toàn thơ ngây tin tưởng vào “Việt Minh” chống thực dân Pháp mà để mang hoạ về sau khi đã quá muộn, khi Việt Minh rơi mặt nạ biến thành Cộng Sản: Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thào, và những tài hoa khác của đất nước trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, v…v…
Sống trong không khí tự do của Hiệp Chủng Quốc, tôi không thấy cần phải sỉ vả, chửi bới hằn học với những người toan tính thoả hiệp với Cộng Sản do những lý do “chính đáng” hay đen tối nào đó thúc đẩy họ. Tôi chỉ cần chia sẻ những hiểu biết và kinh nghiệm về lý thuyết và phương thức hành động của Cộng Sản Việt Nam cùng thế hệ trẻ, với hy vọng họ tiếp thu được kinh nghiệm và hiểu biết của thế hệ trước để quyết định phương hướng của họ trong tương lai. Sống trong không khí tự do của các nước Âu Mỹ, con cháu chúng ta không đụng chạm với thực tế Cộng Sản, không thấy nhu cầu học hỏi về Cộng Sản. Giáo dục tại Mỹ hay tại các nước tân tiến Âu Châu không thấy nhu cầu dạy con cháu hiểm hoạ Cộng Sản vì lý thuyết Cộng Sản đã chết từ những năm đầu của thập niên 90. Chỉ còn 4 nước còn Cộng Sản, nhưng ba nước, Trung Hoa, Việt-Nam và Cuba đã phải chuyển quan kinh tế thị trường vì phá sản với thuyết kinh tế Cộng Sản Quốc Tế. Còn Bắc Hàn thì bất di bất dịch, kinh tế phá sản nên chơi trò nguyên tử để bắt bí thiên hạ.
Khi xảy ra hiện tượng Trần Kiều Ngọc, tôi thấy cần có một bài nêu lên lý do tại sao chúng ta vẫn phải tiếp tục chống lý thuyết Cộng Sản và ước mơ “hoà hợp hoà giải với Cộng Sản.
A. Chống Cộng Sản vì lịch sử đã chứng minh thuyết Karl Marx là SAI.
Thế kỷ 19. Sau bao thế kỷ lao động tay chân, bỗng nhiên kỷ thuật phát triển. Tại thành phố Lyon, Pháp, Jacquard phát minh ra máy dệt. Người thợ dệt bằng hai cây que gọi là canuts mất việc. Họ căm phẫn, đi biểu tình và phá máy dệt bằng cách ném guốc (sabots) của họ vào máy dệt cho gãy. Từ đó nảy sinh ra từ saboter và sabotage (phá hoại). Tiếp theo là phát minh máy hơi nước v…v…
Kỹ nghệ phát triển. Sản xuất tăng gấp bội so với lao động tay chân. Chủ nhân vẫn trả lương cho công nhân như trước nhưng bây giờ nhờ kỹ thuật, sản xuất tăng gấp bội trong khi công nhân vẫn làm việc theo giao kèo và được trả lương. Lúc ban đầu không có nghiệp đoàn lao động, không bảo hiểm sức khoẻ, không định liệu số giờ tối đa làm việc mỗi tuần, không có thời khoá biểu ngày nghỉ. Đời sống lao động chật vật khốn khổ. Ta được nhìn đời sống con người thế kỷ 19 qua những tác phẩm văn chương như Oliver Twist hay Les Misérables chẳng hạn. Nghiêm trọng hơn là sự cách biệt giữa chủ nhân giàu có và công nhân nghèo khó. Càng sản xuất được nhiều đồ thì chủ nhân càng hưởng lợi trong khi đồng lương công nhân cố định. Đó là định nghĩa của “giá trị thặng dư” (La plus-value hay surplus value). Đây là khái niệm căn bản để hiểu suy luận của Karl Marx. Khái niệm này cộng với cái gọi là “mâu thuẫn tư bản” của Karl Marx khi ông ta chứng kiến nền kinh tế trồi lên trụt xuống (khi sản xuất quá nhu cầu) đưa ông tới lý thuyết “Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa Cộng Sản” là kết quả không tránh được. “ Từ mỗi người tuỳ theo phương tiện, cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu” (De chacun selon ses moyens, à chacun selon ses besoins) là châm ngôn chính của Cộng Sản. Thực tế hay ảo tưởng? Tôi sẽ chứng minh trong phần tiếp theo rằng đây chỉ là ảo tưởng nguy hiểm của trí thức không có chút ý niệm gì về kinh tế thực nghiệm.
Lúc đầu, bị lôi cuốn bởi Engels, ông theo Engels mà tuyến bố trong cuốn Manigesto là cần bạo lực để diệt trừ tư sản. Nhưng khi đứng tuổi, Marx cho là Thiên Đường Cộng Sản là kết quả đương nhiên của Tư Bản quá độ. Trái hẳn với ý niệm này, Lenin kể thừa kế, và sau đó mọi đảng viên Cộng Sản trên thế giới, muốn đẩy nhanh cách mạng vô sản, họ dùng bạo lực với mục đích tiêu diệt hết tư sản càng nhanh càng tốt. Tay họ đầy máu.
Những điều sai trong chủ thuyết Cộng Sản và triết lý Karl Marx:
Có rất nhiều người chỉ trích thuyết của Marx sau này ; Jean Jaurès, Raymond Aron, Carl Popper, Heidegger, Joseph Schumpeter v… v… nhưng nổi nhất là chỉ trích của Jean Jaurès, Heidegger và Schumpeter:
1. Chỉ chừng 20 năm sau, nhà chính trị Xã Hội Chủ Nghĩa Pháp là Jean Jaurès đã đưa ra bốn nhận xét chính để đả phá lý thuyết chính trị của Marx trong một bài ngắn nhan đề “Questions des Méthodes”.
a. Jaurès không tán thành bạo lực dùng trong khi và sau Cách Mạng của thời Marx và nhất là thời Lénine. Theo Xã Hội Chủ Nghĩa, Jaurès chọn con đường cách mạng bằng lá phiếu. Chuyên chế vô sản không thể đi cùng với dân chủ. Dĩ nhiên: khi có độc quyền chỉ đạo thì dân chủ đi ra ngoài bằng lối cửa sổ. “Le prolétariat suspend la démocratie”. Tệ hơn nữa, chuyên chế bằng cách nào cũng thế, nó sẽ đưa một lũ người lên ăn trên ngối tróc. Ý này hợp với ý của Trostky khi ông ta chỉ trích Đệ Tam Quốc Tế (các đảng viên Cộng Sản).
b. Karl Marx đổ lỗi tư bản bần cùng hoá vô sản. SAI. Đồng ý cách mạng kỹ nghệ gây nên hố sâu chia rẽ lợi tức giữa tư sản và công nhân. Nhưng lương công nhân dù ít tới đâu cũng vẫn là một bức tiến quan trọng giúp dân nghèo thoát khỏi đời sống cơ cực tại thôn quê với những áp bức của làng xã và nhà thờ. Ngoài ra lương bổng cũng giúp trả phần nào tự do cho phụ nữ. Một người con gái trẻ đi lên tỉnh, cho dù số lương có nhỏ bao nhiêu, cũng có thể thuê chung một cái phòng nhỏ để sống cuộc đời tự do hơn là ở với cha mẹ tại làng và chịu bị ép gả cho người mình không yêu. Theo Luc Ferry, đó là nguồn gốc của sự tự do luyến ái trong hôn nhân tại các nước Âu Châu, một kết quả không ngờ của cách mạng kỹ thuật.
c. Sơ hở lớn nhất của lý thuyết Marx ông ra coi chính quyền như là cơ sở tối thượng và độc quyền của giai cấp công nhân. Theo Jean Jaurès, Chính Quyền là biểu tượng cho tương quan của tất cả các giai cấp. Chính quyền không chỉ thay mặt cho một giai cấp thống trị nào và không có liên hệ mật thiết với kinh tế. Trong phần này, Jaurès cũng nêu phơi bày đạo đức giả của Marx, Lénine khi họ nói là công nhân là giai cấp nắm chính quyền Tuy nhiên, công nhân không có kinh nghiệm Cách Mạng nên cần phải có những “trí thức” như họ và những người được họ huấn luyện tức là những đảng viên Cộng Sản.
d.Trong kinh tế tư sản, Marx quan niệm tư sản coi công nhân như phương tiện, dụng cụ để sản xuất, làm mất phẩm giá công nhân. Như Jaurès đã chứng minh ở phần đoạn b kể trên là lương tháng hay tuần đã giải phóng công nhân và nhất là phụ nữ ra khỏi cái lối sống Trung Cổ nghèo nàn của người dân đồng ruộng.
2. Martin Heidegger sau này chỉ trích Karl Marx với hai điểm chính:
a. Marx đã lấy “cái nhỏ” để giải thích cái “lớn” ( utiliser l’infrastructure pour expliquer la superstructure) : Karl Marx lấy “cá nhân kinh tế” (l’individu économique) để giải thích tất cả hiện tượng khác của nhân loại như văn hoá, tư tưởng, tôn giáo, đạo lý v…v…, đi ngược lại suy luận khoa học thông thường.
b. Marx tự nhận là con người duy vật, nhưng Heidegger cho ông là người hoang tưởng trong cái Heidegger gọi là “Siêu Hình Chủ Quan” (Métaphysique de la subjectivité). Ông coi lý của Marx như là lý luận bản thể học: raisonnement ontologique (ontologie : học thuyết về con người và hiện hữu). Đây là cách riễu Marx của Heidegger khi Marx tuyên bố là những mâu thuẫn kinh tế tư sản bắt buộc dẫn tới “thiên đường” Cộng Sản theo lịch trình bắt buộc của lịch sử. Đố ai đoán được lịch sử sẽ đi theo lối nào trong tương lai? Ví dụ khác về raisonnement ontologique như của Descartes trong Méditations: «Dieu représente toutes les qualités. Or l’existence est une qualité. Donc Dieu EXISTE».
Như vậy cả Marx và Descartes dùng khái niệm để giải thích hiện hữu, điều mà chúng ta đã biết Emmamuel Kant đả phá là phản khoa học. Tệ hại hơn nữa, Heidegger gọi thuyết duy vật của Marx là «onto-théologie » Gọi duy vật biện chứng là «thần học» chẳng khác gì đào mồ Marx lên.
Một người nữa vào đầu thế kỷ 20, Joseph Schumpeter đã chứng minh là những xáo trộn trong kinh tế xã hội không phải đi từ bóc lột công nhân,mâu thuẫn tư bản mà do những khám phá kỹ thuật làm đảo lộn trật tự xã hội. Bằng chứng trước mắt chúng ta là cách mạng tín hiệu vào những năm 1970 -1980 cộng thêm hiện tượng Toàn Cầu Hoá. Người dân trung lưu tại Âu Mỹ mất việc. Một thiểu số đại tư bản có hàng tỷ đô la trong nhà băng. Hố sâu giàu nghèo còn hơn thế kỷ 19 gấp mấy lần. Liệu ta có nên theo Marx và làm một cuộc Cách Mạng Bạo Động để san bằng gia sản tư nhân hay không ? Tôi sẽ trả lời là không. Ta có nhiều cách để giảm bớt cách biệt giàu nghèo : tăng thuế người giàu ( ?) Nhưng không tăng đến độ không còn ai có đủ vốn để canh tân, khuếch trương cơ sở, tăng thêm năng lượng sản xuất. Càng sản xuất được nhiều, người công nhân sẽ hưởng được nhiều lợi tức hơn. Lương của họ sẽ tăng, cách làm việc sẽ bớt mệt nhọc hơn, v…v…Đến một thời điềm nào đó, cách mạng kỹ nghệ mới sẽ đẻ thêm công việc nhưng phải đợi thời gian lâu. Thế hệ này nhiều người mất việc, nhưng thế hệ sau sẽ gặt hái kết quả. Thế hệ này là nạn nhân của cải tiến kỹ nghệ. Thế hệ sau sẽ có nhiều công việc hơn. Không có cách nào hơn. Đó là suy luận của Schumpeter.
Tôi nghĩ những bàn cãi trên đây đủ để chứng minh lý thuyết Cộng Sản hoàng tưởng, không căn bản và lúc nào người trí thức có bổn phận phải chống. Chỉ có những con vẹt Việt Cộng không có sách đọc mới còn lèm bèm bênh vực như con dao cùn. Ngoài ra, người Cộng Sản không biết là người tư sản cũng đọc sách của Marx. Vì vậy họ mới cải thiện dần dần đới sống công nhân bằng cách lập nghiệp đoàn, bảo hiểm sức khoẻ, thởi khoá biểu những ngày nghỉ không làm việc, số giờ làm việc tối đa mỗi ngày. Nhờ những cải tiến trên, các nước tư bản tiến xa trong việc cải thiện đời sống công nhân hơn cả các nước Cộng Sản. Thay thế những người đầu tư thông minh thừa kinh nghiệm, thay thế những nhà thương mại đủ cách để thu hút khách hàng mà không cần gian lận bằng những công chức, đảng viên đầu óc bàn giấy với một guồng máy hành chánh cứng nhắc, thiển cận sẽ chỉ đưa tới khánh tận…
Đó là bài học cho những trí thức ảo mộng như Bertrand Russell, Jean-Paul Sartre. Rất tiếc họ đã chết trước khi Cộng Sản đổ vỡ. Hiện nay chúng ta cũng vẫn có vấn đề tìm cách giúp những người mất việc do Toàn Cầu Hoá gây ra, nhất là tại các nước tân tiến. Đó mới là bài toán của thế kỷ thứ 21. Không còn là vấn đề Cộng Sản nữa. Toàn Cầu Hoá là ông thần đã chui ra khỏi lọ. Không bắt được để nhốt vào lọ được nữa. Dùng bạo lực của Karl Marx, Lénine có được không? Ta có can đảm giết thêm hàng triệu dân để theo một thuyết đã được chứng minh sai bởi lịch sử? Không, ta phải kiên nhẫn cố gắng tìm một giải pháp khác nhân đạo, hợp lý hơn. Việc làm không dễ nhưng cần thời gian, tìm hiểu và đàm phán.
B. Chỉ Chống Tội Ac Thôi ?
Phần hai của Trần Kiều Ngọc tuyên bố rằng chỉ chống tội ác thôi thì dư thừa vì Cộng Sản đồng nghĩa với Tội Ác :
Theo thống kê, Stalin giết từ 8 đến 50 triệu người. Dưới thời Mao Trạch Đông, có khoảng 45 triệu người chết đói trong phong trào Bước Tiến Nhảy Vọt. Chính Mao đã ước lượng cần phải « tiêu diệt » 50 triệu nông dân thì mới thực hiện được phong trào Cải Cách Ruông Đất. Các chuyên gia ước tính và lúc đó vào khoảng 1 đến 2 triệu nông dân bị giết. Ta chưa kể đến thanh trừng Quốc Dân Đảng và những nạn nhân trong cuộc Cách Mạng Văn Hoá.
Tại Việt Nam, nội phong trào cải cách ruộng đất, Hồ Chí Minh đã theo Trung Hoa và giết khoảng 900,000 người, gần 1 triệu. Chưa kể các nước Cộng Sản khác, nếu cộng số nạn nhân bị giết trong tay Cộng Sản Sô Viết và Trung Hoa thì con số đã vượt con số nạn nhân chết trong tay Hitler. Vậy chống Tội Ác là phải chống Cộng Sản. Tuyên bố như Trần Kiều Ngọc là thiếu sót, vô nghĩa.
C. Còn Hoà Giải Hoà Hợp Dân Tộc thì sao?
Gần đây có nhiều phong trào nửa úp nửa mở, tuy nhiên mục đích trực hay gián tiếp là cổ võ Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc. Tôi chỉ muốn hỏi những vị này một câu : Khi cãi cọ hay đánh nhau chảy máu đầu, nếu muồn hoà thì chỉ có cách mỗi bên nhường nhịn nhau một số điều kiện. Xin hỏi Cộng Sản Việt Nam có yêu cầu hoà giải hay không ? Nếu có thì chúng nhường ta những điều kiện gì ? Hay chỉ có tuyên bố là « người ở hải ngoại là khúc ruột ngàn dặm » là đủ cho ta sung sướng quên hết tội ác của chúng ?
Mang quân đi chiếm nước của chúng ta là xâm chiếm, làm sao hoà giải hoà hợp nếu không có đại diện của chúng ta trong một chính phủ do dân bầu lên, nếu không bãi bỏ đảng Cộng Sản ? Hoà hợp hoà giải với chúng khi chúng còn giữ bản chất Cộng Sản lúc này là lại rơi vào mâu thuẫn chống hay không chống Cộng Sản.
Ngồi viết những giòng này, tôi không mong cải hoá được Trần Kiều Ngọc hay những nhân vật khác rắp tâm bắt tay với Cộng Sản. Họ đã chọn đường đi của họ. Rồi một ngày nào đó, họ sẽ vỡ mộng và trả giá như những nạn nhân của Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm, như Phan Khôi,Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, v…v…
Hoài bão của riêng tôi khi viết những giòng này là mong cho thế hệ Việt Nam trẻ ý thức được những mâu thuẫn của chính quyền Cộng Sản Việt Nam bây giờ, miệng hô Xã Hôi Chủ Nghĩa nhưng lại theo tài phiệt đỏ, lập ra một giai cấp thống trị tiền rừng bạc bể, cho con cháu đi ra nước ngoài trong khi dân tộc lầm than vẫn lầm than. Nhiều người nhìn thấy Saigon, Hà Nội xây cất xầm uất nghĩ ngay đến việc hoà hợp với Cộng Sản, cho rằng Cộng Sản đã thành công và tốt hơn hết, ta nên chơi với người thành công. Họ không nghĩ rằng đây chỉ là trò nắm đuôi kinh tế Trung Cộng đi lên. Lợi tức đọng lại với đảng viên Cộng Sản nắm quyền hành. Người dân không thể với tới. Nhiều người về làm ăn với Cộng Sản đã mất cả vốn lẫn lời. Có khi còn vào tù nữa. Hãy xem trường hợp Trịnh Vĩnh Bình.
BS Nguyễn Ngọc Khôi
Sách Tham Khảo:
1. The Manifesto of the Communist Party. International Publishers
2. Leninism by Neil Harding
3. Luc Ferry : Karl Marx 3 Cds
4. Marx : qui suis-je ? Nicolas Tandler
5. Karl Marx biography Francis Wheen